Lịch sử, ý nghĩa tết cổ truyền Việt Nam
Tết Nguyên đán, còn gọi Tết Ta,
Tết Âm Lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết, là dịp lễ
quan trọng nhất trong văn hoá của người Việt Nam và một số các dân tộc
chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác.
Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch
hay Tết Tây, thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương
lịch và nói chung kéo dài khoảng 5–6 ngày, tạo điều kiện cho những thành
viên gia đình sinh sống làm ăn ở nơi xa có thể về quê vui cảnh đoàn
viên ít ngày. Nhưng ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết ở chỗ nó là dịp để
người Việt nhớ về cội nguồn, ông bà tổ tiên. Ngày tết đem lại một sự
khởi đầu mới, rũ bỏ những gì không hay đẹp của năm qua nên mọi người đều
cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Lòng người nào
cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Hai chữ "Nguyên đán" (元旦) có gốc chữ
Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng
sớm. Tết Nguyên đán được người Trung Quốc ngày nay gọi là Xuân tiết (春節,
chữ Tết là từ chữ Tiết), Tân niên (新年) hoặc Nông lịch tân niên (農曆新年).

Thời gian cử hành Tết
Phong bì lì xì đựng tiền mừng tuổi
Ngày đầu năm này cũng gọi là ngày Mồng
Một Tết, ngày bắt đầu của một dịp lễ cổ truyền long trọng nhất trong năm
của người Việt. Có những thời điểm trước đây chuỗi ngày Tết được kéo
dài hơn hiện nay, người ta "ăn Tết" (tận hưởng Tết) đến Mồng Tám, Mồng
Chín tháng giêng (tháng một Âm lịch); nói chung khi nào những công sở,
trường học còn nghỉ thì còn Tết. Tết là dịp hội hè vui chơi sau một năm
lao động vất vả, và là dịp để những người tha phương tìm về sum họp với
gia đình, cùng nhau tưởng nhớ đến tổ tiên, cội nguồn. Người Việt Nam tin
rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho
đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét
vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp
này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là
dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi.
Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em
sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có
đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết.
Những nét chính về Tết
Mùa Tết
Từ 23 tháng chạp trở đi là bắt đầu vào
thời kỳ rộn ràng của mùa Tết, tính từ mốc sự kiện "đưa ông Táo về trời"
(một nghi thức tiễn đưa thần bếp lên chầu Ngọc Hoàng báo cáo lại tình
hình trong năm của chủ gia) vào ngày này. Thiên hạ đua nhau nô nức mua
sắm các vật dụng, đặc biệt là quần áo và thức ăn (việc buôn bán mùa Tết
thường sẽ chấm dứt từ đúng ngọ ngày 29 hoặc 30 tháng chạp, từ khi đó lần
đầu tiên trong năm, chợ búa trở nên vắng vẻ và các sạp trống không).
Tại những bến xe tấp nập những người tha phương mua vé xe để trở về quê
đoàn tụ cùng gia đình. Không khí lễ mỗi lúc một đầy ngập hơn, người
người ai nấy đều nô nức rộn ràng chuẩn bị đón xuân.
Chợ Tết
Đấy là những chợ có phiên họp chợ vào
trước tết từ 25 tháng chạp cho đến 30 tháng chạp, bán nhiều mặt hàng,
nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết nguyên đán, như lá dong
để gói bánh chưng, gạo nếp để gói bánh chưng hoặc nấu xôi, gà trống,
các loại trái cây dùng thờ cúng (ngũ quả) để cúng tổ tiên.... Vì tất cả
những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ bán hàng trong những ngày Tết,
những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi
họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người Việt có câu "mồng bốn chợ
ma, mồng ba chợ người" nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba tết
(ngày 3 tháng 01 âm lịch) Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu
cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa kiểng, những loại trái
cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như
mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài v.v. Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm
dứt vào trước ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả
đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt.
Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ lực "quốc hồn quốc túy"
Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu tươi được
bày bán đầy các chợ. Các bà nội trợ mua về cắt lấy phần củ trắng nõn
nà, phơi qua vài nắng cho khô quắt lại rồi cho vào những ve keo, kế đó
cho vào các ve củ kiệu này giấm sôi nấu với đường, xong đậy kín lại. Vào
vài buổi chợ giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng vịt để chuẫn bị món dự
trữ chủ lực: thịt kho nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh tráng, giá để làm
dưa giá nữa là xong. Không ai là người Việt mà không cảm khái thứ hương
vị dân tộc và khó quên ấy: bánh tráng nhúng nước cho mềm, trải ra trên
một tay, cho lên đấy một miếng thịt mỡ, một miếng hột vịt, vài ba củ
kiệu, ít dưa giá rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt kho dằm miếng ớt.
Ngày tết hễ đói bụng, hay muốn nhậu, ngoài các thứ đều không thể thiếu
được "thịt kho, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng". Phải nhìn thấy chúng, nếm
chúng, nuốt chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được hương xuân
trọn vẹn.
Riêng người Bắc, thay vì củ kiệu, một số
người dùng củ hành ta với cách làm cũng tương tự. Ve dưa hành có màu
hồng như ngọc, trông rất đẹp và "may mắn".
Màu của ngày Tết
Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu
chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát
tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ,
phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển
lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng,
mãn đình hồng, hoa đào v.v. Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt,
đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ
giao thừa đến rạng sáng Tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng"
mới thôi.
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.
Theo Cục văn hóa cơ sở - vhttcs.org.vn