Nguyên nhân phổ biến liên quan tới môi trường:
– Kỹ năng về ngôn ngữ không được sự quan tâm đúng mức của các bậc cha mẹ trong việc dạy trẻ ( cha mẹ chỉ tập trung dạy các kỹ năng khác như: đi, đứng…)
– Trẻ song sinh hoặc sinh dày làm ảnh hưởng tới chất lượng chăm sóc trẻ của cha mẹ do không có thời gian
– Trẻ là con thứ trong gia đình và anh/ chị của trẻ là những trẻ có khả năng giao tiếp quá tốt làm cho trẻ không cần phải nói nhiều vẫn đạt được điều mình muốn thể hiện nên “ lười” giao tiếp hoặc có ít cơ hội để tham gia các cuộc hội thoại với mọi người xung quanh
– Trẻ không giao tiếp hoặc ít được quan tâm trong môi trường nuôi giữ ngoài gia đình
– Trẻ sinh trưởng trong môi trường giao tiếp bằng hai hoặc nhiều ngôn ngữ
– Chất lượng sống hạn chế như: nghèo đói, suy dinh dưỡng, thiếu sự quan tâm, chăm sóc, môi trường sống gây áp lực (stress)…
– Bị ngược đãi, không được quan tâm hoặc ít khi được nói chuyện giao tiếp với cha mẹ
Nguyên nhân về thể chất
– Chậm phát triển trí tuệ
– Chậm phát triển: Đây là sự chậm phát triển của quá trình xử lý thần kinh trung ương mà nhờ đó trẻ mới có thể nói
– Vấn đề về thính giác
– Rối loạn khả năng đọc
– Bại n ão ( có rất nhiều nguyên nhân gây bại não )
– Tự kỷ
– Tổn thương não bộ
– Mù bẩm sinh cho dù không có dấu hiệu khiếm khuyết về tư duy thần kinh khác;
– Hội chứng Klinefelter một loại bệnh lý gây ra do các bé tai khi sinh ra có thêm 1 nhiễm sắc thể X thay vì chỉ có một nhiễm sắc thể X
– Hội chứng asphia :nghĩa là thiếu khả năng thấu hiểu hoặc hạn chế khả năng phản ứng với giao tiếp nói mà đối tượng nghe được , xuất phát từ các tổn thương tại não ở những vùng phụ trách các chức năng này, như vùng Broca, đảm nhiệm chức năng tạo dựng ngôn ngữ, hay vùng Wernicke, đảm nhiệm chức năng diễn đạt ngô, resulting from brain damage
– Hội chứng hạn chế năng lực biểu đạt ngôn ngữ : không có khả năng nói hoặc viết mặc dù có khả năng hiểu được ngôn ngữ do nguyên nhân thiếu dinh dưỡng, tổn thương tại não bộ hoặc các yếu tố di truyền
– Rối loạn ngôn ngữ khác một dạng bệnh lý của hệ thống thần kinh
Nh ững khi ếm khuy ết v ề h ệ th ống th ần kinh chi ếm t ới 50% nguy ên nh ân g ây n ên nh ững h ạn ch ế v ề ng ôn ngữ ở trẻ thuộc nhóm này.
Chậm phát triển ngôn ngữ thường thấy ở trẻ chậm phát triển và đây cũng là một trong những dấu hiệu đầu tiên để phát hiện triệu chứng của các bệnh có liên quan đến chậm phát triển. Chậm phát triển trí tuệ gây ra chậm phát triển ngôn ngữ toàn diện bao gồm cả chậm phát triển thính giác hoặc sử dụng các sắc thái biểu cảm.
Khiếm thính cũng là một nguyên nhân phổ biến của chậm phát triển kỹ năng ngôn ngữ. Trẻ sẽ gặp phải vấn đề về ngôn ngữ khi không nghe được nội dung giao tiếp một cách liền mạch và rõ rang. Mặc dù khiếm thính có thể ảnh hưởng rõ nét tới mức độ phát triển ngôn ngữ.Nhìn chung, vấn đề khiếm thính tỷ lệ thuận với vấn đề chậm phát triển kỹ năng ngôn ngữ. Trẻ bị khiếm thính bẩm sinh hoặc bị điếc càng bị chậm ngôn ngữ trầm trọng cho dù khiếm khuyết được phát hiện sớm và can thiệp sớm trong những năm đầu đời.
Các dấu hiệu và triệu chứng nhận biết:
Chậm phát triển do yếu tố môi trường
– Không đạt các ngưỡng phát triển ngôn ngữ thông thường
– Chậm phát triển ngôn ngữ so với các trẻ cùng lứa ít nhất 1 năm
– Không có khả năng làm theo hướng dẫn
– Sau 3 tuổi, nói vẫn chậm và khó hiểu
– Đặc biệt khó khăn với cú pháp của câu ( không thể sắp xếp câu theo một thứ tự đúng)
– Phát âm một cách khó khăn trong đó bao gồm không phát âm đ ược, phát âm không chính xác một số âm nhất định
Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà dấu hiệu/ biểu hiện nhất định mà qua đó chúng ta có thể nhận biết được vấn đề chậm phát triển ngôn ngữ.Tuy nhiên, những dấu hiệu cơ bản có thể bao gồm:
– Không có dấu hiệu tập nói bập bẹ khi từ 12 đến 15 tháng tuổi
– Không hiểu được những câu yêu cầu đơn giản khi 18 tháng tuổi
– Không nói khi được 2 tuổi
– Không nói thành câu khi bước sang 3 tuôỉ
– Không thể kể lại một câu chuyện đơn giản khi 4 đến 5 tuổi
Chậm phát triển ngôn ngữ do chậm phát triển trí tuệ
Những trẻ có khiếm khuyết về trí lực thông thường vẫn bi bô, bập bẹ suốt năm đầu đời và có thể nói được những từ đầu tiên giống như trẻ thông thường. Tuy nhiên, trẻ thường không làm được những điều sau:
– Ghép các từ với nhau
– Nói một câu hoàn chỉnh
– Vốn từ vựng không phong phú
– Không phát triển về mặt ngữ pháp câu
Những trẻ này thường có xu hướng nhắc lại hoặc nói theo một thứ tự nhất định, ít sự sang tạo.Tuy nhiên, quá trình phát triển về mặt từ vựng và ngữ pháp thường diễn ra theo một trình tự không có quá nhiều sự khác biệt đối với trẻ phát triển bình thường.
Nhìn chung, mức độ nghiêm trọng của vấn đề chậm phát triển ngôn ngữ ở từng trẻ phụ thuộc vào mức độ chậm phát triển của trí lực. Có thể chia thành các mức độ sau:
Mức độ thấp (chỉ số IQ từ 52-68) thông thường cuối cùng kỹ năng ngôn ngữ vẫn phát triển
– Mức độ bình thường (chỉ số IQ từ 36–51): thông thường có thể vẫn học nói và học giao tiếp
– Mức độ nghiêm trọng ( IQ từ 20–35): ngôn ngữ hạn chế nhưng vẫn có thể nói được một số từ
Trẻ ở nhóm này có biểu hiện và mức độ rất phong phú và đa dạng. Một số trẻ chậm phát triển nghiêm trọng vì bị Não úng thuỷ hoặc hội chứng William có thể có các kỹ năng ngôn ngữ trao đổi cá biệt. Một số trẻ cũng bị chậm phát triển nhưng vẫn có thể học được ngôn ngữ mẹ đẻ cũng như các ngôn ngữ thứ hai khác một cách rất dễ dàng. Với Hôị chứng Down và một số các bệnh khác thì vấn đề chậm phát triển ngôn ngữ có thể rất nghiêm trọng .
Chẩn đoán trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Việc chẩn đoán chậm phát triển ngôn ngữ đòi hỏi những xét nghiệm thể chất toàn diện kết hợp với việc xem xét lịch sử phát triển của trẻ trong đó đặc biệt là các mốc cữ quan trọng của quá trình phát triển ngôn ngữ. Đối với các trẻ nhỏ, không dễ dàng để phân biệt giữa việc trẻ “ chậm cữ” và việc trẻ mắc các hội chứng bệnh lý về phát triển ngôn ngữ và biểu đạt bằng ngôn ngữ. Thông thường việc trẩn đoán sẽ được tiến hành bởi các chuyên gia chuyên ngành.. Việc chậm phát triển ngôn ngữ được suy đoán dựa trên các cữ phát triển và là cơ sở để đưa ra giả định có liên quan đến mức độ phát triển trí tuệ của trẻ.